Thứ Năm, 28 tháng 2, 2008

MỘT SỐ CÂU HỎI TRIẾT HỌC BẬC TRUNG CẤP (MÔN CHÍNH TRỊ)

Câu 1: Quan hệ giữa vật chất và ý thức?
Trả lời:
* Định nghĩa vật chất và ý thức theo quan điểm của triết học Mác-Lênin:
- Vật chất là một phạm trù triết học, dùng để chỉ thực tại khách quan, được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ thuộc vào cảm giác.
- Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
* Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Trong mối quan hệ giữa vật chất và ý thức thì vật chất quyết định ý thức và ý thức có sự tác động trở lại vật chất.
- Vật chất quyết định ý thức:
+ Vật chất là những tiền đề, cơ sở, nguồn gốc cho sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức.
+ Điều kiện vật chất như thế nào thì ý thức như thế đó. Khi cơ sở vật chất, điều kiện vật chất thay đổi thì ý thức cũng thay đổi theo.
+ Vật chất quyết định cả nội dung, bản chất và khuynh hướng vận động, phát triển của ý thức.
+ Cơ sở vật chất, điều kiện vật chất là nơi hình thành nên các công cụ, phương tiện nối dài các giác quan của con người để nhận thức thế giới.
+ Cơ sở vật chất, điều kiện vật chất, môi trường sống là nơi kiểm nghiệm nhận thức của con người, xác định nhận thức đúng, bác bỏ nhận thức sai.
- Ý thức tác động trở lại vật chất:
+ Ý thức phản ánh hiện thực khách quan vào óc con người, giúp con người hiểu được bản chất, quy luật vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Trên cơ sở đó, hình thành phương hướng, mục tiêu và những phương pháp, cách thức thực hiện phương hướng, mục tiêu đó.
+ Trong hoạt động thực tiễn, sự vật bao giờ cũng bộc lộ nhiều khả năng. Nhờ ý thức, con người biết lựa chọn những khả năng thực tế, phù hợp mà thúc đẩy sự vật phát triển.
+ Ý thức tự nó không thực hiện được gì hết, nên ý thức tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
* Khi nói vai trò quyết định của ý thức đối với sự thành bại trong hoạt động thực tiễn thì cần hiểu theo hướng sau:
+ Chỉ xét sự vật, hiện tượng trong một giới hạn hết sức hạn hẹp: một trạng thái, một tình huống, một thời điểm… nhất định mà thôi.
+ Ý thức không được phép vượt ra khỏi hoàn cảnh khách quan, không được thay thế các yếu tố vật chất, mà chỉ là sự phát hiện và sử dụng có hiệu quả các yếu tố vật chất mà thôi.
+ Ý thức dù có năng động đến đâu, dù có vai trò to lớn đến đâu, xét đến cùng bao giờ nó cũng bị yếu tố vật chất quyết định.
* Ý nghĩa phương pháp luận:
- Từ nguyên lý vật chất quyết định ý thức:
+ Trong hoạt động nhận thức, thực tiễn phải luôn tôn trọng hiện thực khách quan, quy luật khách quan. Nghĩa là: phái xuất phát từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội nhất định mà đề ra đường lối, chủ trương, chính sách đúng đắn, phù hợp, thúc đẩy lịch sử tiến lên.
+ Chống quan điểm chủ quan duy ý chí, nôn nóng, vội vàng, vì tất yếu sẽ dẫn đến sai lầm trong hoạt động nhận thức và thất bại trong hoạt động thực tiễn.
+ Chống tuyệt đối hoá vai trò quyết định của vật chất, vì sẽ rơi vào quan điểm duy vật tầm thường.
- Từ nguyên lý ý thức tác động trở lại vật chất:
+ Phải luôn luôn chú ý phát huy đầy đủ tính năng động, chủ quan, sự sáng tạo của con người trong việc nhận thức thế giới, cải tạo thế giới.
+ Phải không ngừng bồi dưỡng nâng cao trình độ, tư tưởng, văn hoá, khoa học – kỹ thuật cho quãng đại quần chúng nhân dân, phải biết khơi dậy trong nhân dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà ra khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu.
+ Chống tuyệt đối hoá vai trò tác động trở lại của ý thức, vì sẽ rơi vào quan điểm của chủ nghĩa duy tâm.


Câu 2: Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất?
Trả lời:
* Khái niệm lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
- Lực lượng sản xuất là mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên, là trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là mặt tự nhiên của phương thức sản xuất. Lực lượng sản xuất bao gồm: tư liệu sản xuất và người lao động với trình độ kỹ năng và thói quen trong lao động của họ.
- Quan hệ sản xuất là mối quan hệ giữa con người với người trong quá trình sản xuất, là mặt xã hội của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất bao gồm: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức, quản lý, phân công lao động và quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động.
* Khái niệm về tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
- Tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất cá nhân hay tính chất xã hội trong việc sử dụng tư liệu lao động, mà chủ yếu là công cụ lao động của con người để chế tạo sản phẩm.
+ Nếu công cụ lao động chỉ cần một người sử dụng cũng có thể tiến hành sản xuất được thì tính chất của lực luộng sản xuất là tính chất cá nhân.
+ Nếu công cụ lao động là những máy móc cơ khí liên hoàn, đòi hỏi nhiều người cùng sử dụng mới tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh thì tính chất của lực lượng sản xuất là tính chất xã hội.
- Trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ phát triển khoa học công nghệ, khoa học kỹ thuật, công cụ lao động, phân công lao động và người lao động. Trong đó, phân công lao động và đi liền với nó là trình độ chuyên môn hoá là sự biểu hiện rõ ràng nhất.
* Mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất:
Trong mỗi phương thức sản xuất, lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau. Trong đó, lực lượng sản xuất là nội dung vật chất – kỹ thuật và quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của phương thức sản xuất. Do đó, trong mối quan hệ này thì lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất; và quan hệ sản xuất có sự tác động trở lại lực lượng sản xuất.
- Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất:
+ Lực lượng sản xuất như thế nào về tính chất và trình độ thì nó đòi hỏi quan hệ sản xuất phải như thế ấy để đảm bảo sự phù hợp.
+ Khi lực lượng sản xuất đã thay đổi về tính chất và trình độ thì quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi theo để đảm bảo sự phù hợp.
+ Khi lực lượng sản xuất cũ mất đi, lực lượng sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất cũ cũng phải mất đi và quan hệ sản xuất mới phải ra đời để đảm bảo sự phù hợp.
- Quan hệ sản xuất tác động trở lại lực lượng sản xuất:
+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Nếu quan hệ sản xuất không phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất thì nó sẽ kìm hãm, thậm chí phá vỡ lực lượng sản xuất.
Một quan hệ sản xuất được gọi là phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất khi nó tạo ra những tiền đề, những điều kiện cho các yếu tố của lực lượng sản xuất kết hợp với nhau một cách hài hoà để cho sản xuất diễn ra bình thường và đưa lại năng suất lao động cao.
• Sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất không phải chỉ thực hiện một lần là xong, mà phải là một quá trình, một “cân bằng động”. Nghĩa là một sự phù hợp- cụ thể nào đó giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất luôn luôn bị phá vỡ để thay bằng một sự phù hợp khác cao hơn.
* Sự vận dụng quy luật này trong đường lối đổi mới của Đảng ta:
- Đặc điểm nước ta: Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự cấp đi lên chủ nghĩa xã hội, lại do hậu quả nặng nề của các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc ác liệt và lâu dài, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là hoàn toàn mới, chưa hề có tiền lệ trong lịch sử.
- Sai lầm, khuyết điểm đã mắc phải: Thời kỳ đầu chúng ta đã chủ quan duy ý chí, bất chấp quy luật khách quan: nóng vội xoá bỏ các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tập thể khi nó còn lý do tồn tại, đề cao, mở rộng quan hệ sản xuất tập thể khi nó chưa có đầy đủ những tất yếu kinh tế.
- Đảng ta vận dụng quy luật:
+ Để khắc phục những thiếu xót và sai lầm trong thời kỳ trước đây, Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thành phần kinh tế nhà nước phải vươn lên giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân.

Câu 3: Tính tất yếu và những vấn đề mới của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội?
Trả lời:
* Định nghĩa đấu tranh giai cấp:
“Đấu tranh giai cấp là đấu tranh của một bộ phận nhân dân này chống một bộ phận khác, cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước hết quyền, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức và ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay những người vô sản chống những người hữu sản hay giai cấp tư sản”.
* Tính tất yếu của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Giai cấp tư sản tuy đã bị đánh đổ nhưng chưa bị tiêu diệt, thậm chí còn rất mạnh trên nhiều lĩnh vực như: tư tưởng, chính trị, kinh tế và mối quan hệ quốc tế. Do đó, nó chống đối gay gắt hòng giành lại thiên đường đã mất.
- Trong một thời gian dài, sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền, những cơ sở để nảy sinh giai cấp bóc lột và sự phân chia giai cấp nói chung vẫn còn tồn tại.
- Những tư tưởng, tâm lý, tập quán bảo thủ, lạc hậu của các giai cấp cũ chưa bị quét sạch, vẫn còn ảnh hưởng lâu dài trong đời sống của đông đảo quần chúng nhân dân .
- Bọn đế quốc và các thế lực thù địch phản động vẫn luôn tìm mọi cách phá hoại, can thiệp bằng nhiều thủ đoạn khác nhau và gần đây là âm mưu thâm độc “diễn biến hoà bình” nhằm xoá bỏ thành quả của cách mạng xã hội chủ nghĩa.
* Những vấn đề mới của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội:
- Điều kiện mới: Điều kiện mới quan trọng nhất là sự thay đổi căn bản vị trí xã hội của giai cấp vô sản. Giờ đây họ đã là giai cấp lãnh đạo xã hội, chủ động tổ chức mọi hoạt động của xã hội trên quy mô rộng lớn, có điều kiện tiếp thu và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm phát triển xã hội theo hệ tư tưởng Mác-Lênin.
- Nội dung mới: Nội dung cuộc đấu tranh giai cấp chuyển từ vấn đề giành chính quyền sang giữ chính quyền và dùng chính quyền làm công cụ để tổ chức xây dựng xã hội mới như: Thiết lập hệ thống chính trị do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trấn áp kẻ thù đối lập, giáo dục quần chúng nhân dân tổ chức kiểu sản xuất xã hội có năng suất cao hơn hẳn chủ nghĩa tư bản…
- Hình thức mới: Hình thức đấu tranh được sử dụng một cách tổng hợp: có đổ máu và không đổ máu, có bạo lực và hoà bình, bằng quân sự và kinh tế, bằng giáo dục và hành chính… Cuộc đấu tranh đó cho phép và có điều kiện diễn ra trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, tư tưởng…
* Liên hệ ở nước ta hiện nay:
- Ở nước ta, cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp vô sản diễn ra vẫn còn gay gắt để giải quyết vấn đề “ai thắng ai” giữa hai con đường.
+ Đặc điểm lớn nhất của nước ta là từ sản xuất nhỏ, nông nghiệp lạc hậu, tự cung, tự cấp, tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
+ Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vừa phải tuân theo những quy luật chung, vừa bị chi phối bởi những quy luật đặc thù.
- Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là: Thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển; thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực, sai trái; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước xã hội phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Câu 4: Thực tiễn và vai trò của thực tiễn đối với nhận thức?
Trả lời:
* Phạm trù thực tiễn:
Triết học Mác-Lênin, cho rằng:
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có tính chất lịch sử – xã hội của con người, nhằm cải tạo thế giới khách quan.
- Hoạt động thực tiễn có ba hình thức cơ bản, đó là: hoạt động sản xuất vật chất, hoạt động chính trị – xã hội và hoạt động quan sát thực nghiệm khoa học.
* Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức:
- Thực tiễn là cơ sở, nguồn gốc của nhận thức:
+ Mọi nhận thức cuả con người, xét đến cùng đều có nguồn gốc từ thực tiễn. Thực tiễn cung cấp những tài liệu hiện thực, khách quan làm cơ sở để con người nhận thức. Bằng hoạt động thực tiễn, con người tác động vào thế giới khách quan, bắt đối tượng bộc lộ ra những đặc trưng, thuộc tính, những quy luật vận động, phát triển, để con người nhận thức, qua đó làm cho nhận thức không ngừng được nâng cao.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, con người đã sáng tạo ra những công cụ, phương tiện ngày càng tinh xảo hơn để nhận thức thế giới.
+ Thông qua hoạt động thực tiễn, các giác quan con người ngày càng phát triển, ngôn ngữ ngày càng phong phú, hình thành cả một hệ thống khái niệm, phạm trù và thường xuyên được bổ sung, đổi mới… tạo điều kiện cho con người nhận thức thế giới ngày càng sâu rộng hơn.
- Thực tiễn là động lực và mục đích của nhận thức:
+ Thực tiễn thường xuyên vận động, phát triển, nên nó luôn đặt ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng mới cho nhận thức.
+ Chính thực tiễn thúc đẩy sự ra đời và phát triển mạnh mẽ các ngành khoa học tự nhiên và xã hội.
+ Hoạt động của con người bao giờ cũng có mục đích, phương hướng, biện pháp. Mục đích, phương hướng, biện pháp là kết quả của quá trình nhận thức.
+ Mục đích nhận thức của con người không phải chỉ để nhận thức, mà suy đến cùng là để cải tạo hiện thực, cải tạo thế giới, theo nhu cầu, lợi ích của con người.
- Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý:
+ Chân lý là những tri thức của con người phù hợp với hiện thực khách quan, đã được thực tiễn kiểm nghiệm.
+ Chỉ có thực tiễn mới là tiêu chuẩn của chân lý, vì thực tiễn cao hơn nhận thức, nó vừa có tính hiện thực trực tiếp, lại vừa có tính phổ biến.
+ Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý, vừa có tính tuyệt đối lại vừa có tính tương đối. Bởi vì: Thực tiễn là cái duy nhất làm tiêu chuẩn của chân lý, ngoài nó ra không có cái nào khác có thể làm tiêu chuẩn cho chân lý được. Tuy nhiên, thực tiễn ngay một lúc, không thể khẳng định được cái đúng, bác bỏ cái sai một cách tức thì. Nó không cho phép người ta hiểu biết bất kỳ một cái gì hoá thành chân lý vĩnh viễn, bất biến.

Câu 5: Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội và đặc trưng của chủ nghĩa xã hội?
Trả lời:
* Định nghĩa:
Chủ nghĩa xã hội là một xã hội thay thế chủ nghĩa tư bản, một xã hội có đặc điểm là chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, không có tình trạng người áp bức bó lột người. Nền sản xuất được kế hoạch hóa trên phạm vi toàn xã hội, là giai đoạn đầu của hình thái kinh tế – xã hội Cộng sản chủ nghĩa.
* Tính tất yếu của chủ nghĩa xã hội:
- Lịch sử phát triển của xã hội loài người đã tuần tự trải qua các hình thái kinh tế – xã hội từ thấp đến cao – đó là một quá trình lịch sử tự nhiên. Mỗi hình thái kinh tế xã hội tương ứng với một kiểu quan hệ sản xuất đặc trưng phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và một kiến trúc thượng tầng được xây dựng trên quan hệ sản xuất đó.
- Trong chủ nghĩa tư bản, lực lượng sản xuất phát triển cao, dần dần vượt ra khỏi khuôn khổ và quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa có thể dung hợp, điều khiển và quản lý. Lực lượng sản xuất càng phát triển sẽ mâu thuẫn với quan hệ sản xuất dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản. Cuộc đấu tranh giai cấp sẽ phát triển thành cuộc cách mạng xã hội để thay thế chủ nghĩa tư bản bằng việc thiết lập chủ nghĩa xã hội, tiến tới chủ nghĩa cộng sản..
- Thời đại hiện nay đã và đang mở ra khả năng cho nhiều nước quá độ lên CNXH từ một nền kinh tế lạc hậu, chậm phát triển, cách mạng XHCN do giai cấp công nhân lãnh đạo giành được thắng lợi, chính quyền thuộc về tay giai cấp công nhân và nhân dân lao động, từ đó sẽ tiến hành xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh tế, xã hội, văn hóa, tư tưởng đi tới CNXH và CNCS.
* Những đặc trưng cơ bản của CNXH:
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH là nền đại công nghiệp cơ khí phát triển cao, được xây dựng và mở ra khả năng rộng lớn để lực lượng sản xuất phát triển bền vững. Giai cấp công nhân phải tiến hành tổ chức lại nền sản xuất xã hội theo định hướng XHCN, khai thác thành tựu của cách mạng KH và công nghệ nhằm phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, tạo ra nhiều của cải, vật chất và tinh thần cho xã hội, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội, thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động, thực hiện công bằng xã hội, nâng cao dần đời sống mọi mặt của các thành viên trong xã hội.
- Chế độ dân chủ XHCN được xây dựng và không ngừng hoàn thiện, được thực hiện rộng rãi trong thực tế, bảo đảm mọi công dân đều là người chủ chân chính của xã hội, hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật, đảm bảo sự thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi, quyền con người, quyền bình đẳng nam nữ v.v… để phát triển con người toàn diện.
- Nền văn hóa XHCN tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc được thiết lập và phát triển. Lối sống XHCN dựa trên cơ sở bình đẳng xã hội, chủ nghĩa tập thể, tinh thần tương trợ được thực hiện. CNXH tạo ra sự bình đẳng, hữu nghị giữa các dân tộc.
* Những đặc trưng của xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng:
- Xã hội XHCN mà chúng ta xây dựng ở nước ta là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Đó là xã hội có một nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Có nền văn hóa tiên tiến , đậm đà bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có đời sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn diện.
- Có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Câu 6: Nội dung của thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội?
Trả lời:
Nội dung của thời kỳ quá độ lên CNXH:
* Về kinh te – xã hội:
- Về kinh tế:
+ Xây dựng và phát triển lực lượng sản xuất trên cơ sở nền công nghiệp hiện đại hóa, khoa học – kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, giải phóng sức sản xuất, phát huy mọi tiềm năng của đất nước, không ngừng nâng cao năng suất lao động và hiệu quả kinh tế để sản xuất ra nhiều của cải cho xã hội, đáp ứng yêu cầu của nhân dân và phát triển đất nước.
+ Từng bước xây dựng quan hệ sản xuất XHCN phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Trên cơ sở chế độ sở hữu (toàn dân, tập thể, tư nhân), hình thành nhiều hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân), kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
+ Sự chuyển hóa các thành phần kinh tế theo hướng xã hội chủ nghĩa diễn ra phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất. Các thành phần kinh tế dưới sự quản lý của nhà nước đều bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, hỗ trợ lẫn nhau thúc đẩy nền sản xuất phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Về xã hội:
Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển. Tăng trưởng kinh tế đi liền với việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường thiên nhiên và môi trường xã hội trong sạch lành mạnh, gắn quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ, tạo động lực mạnh mẽ và bền vững cho phát triển kinh tế – xã hội.
* Về chính trị:
- Từng bước củng cố, xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN thực sự của dân, do dân, vì dân.
- Thực hiện nền dân chủ XHCN. Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
- Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, tạo ra sự nhất trí ngày càng cao về chính trị, tinh thần trong xã hội.
- Xây dựng và phát triển tình hữu nghị anh em giữa các dân tộc.
* Về tư tưởng văn hóa:
- Thế giới quan của Chủ nghĩa Mác-Lênin và nhân sinh quan Cộng sản chủ nghĩa từng bước được thiết lập và giữ vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trong đạo đức, lối sống và cách suy nghĩ của mỗi người.
- Từng bước nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, tạo ra những điều kiện cho mọi người nâng cao mức hưởng thụ văn hóa và trực tiếp sáng tạo ra các giá trị văn hóa.
- Đấu tranh chống mọi tàn dư của tư tưởng và văn hóa lạc hậu, phản động do xã hội cũ để lại hoặc do các thế lực thù địch nhập vào. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc – nền tảng tinh thần của xã hội. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại:
Những nội dung trên đều xuất phát từ những đặc điểm kinh tế, xã hội và chính trị thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, là việc giải quyết những mâu thuẫn cơ bản:
+ Mâu thuẫn giữa chính quyền Nhà nước XHCN của dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản với các thế lực đế quốc, phản động quốc tế cấu kết với các thế lực phản cách mạng, những tàn dư xã hội cũ, muốn xóa bỏ nhà nước XHCN, phá hoại công cuộc xây dựng CNXH.
+ Mâu thuẫn giữa hai khả năng, hai con đường, hai xu thế phát triển của xã hội : Đúng định hướng XHCN hay chệch hướng XHCN.
+ Mâu thuẫn giữa sản xuất còn thấp và nhu cầu tiêu dùng cần được nâng cao, giữa lợi ích trước mắt và lâu dài, giữa yêu cầu khách quan và trình độ chủ quan có hạn của con người.
Câu 7: Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng? Người cán bộ, chiến sĩ Công an nhân dân trong giai đoạn cách mạng hiện nay phải rèn luyện như thế nào để trở thành con người toàn diện?
Trả lời:
* Quan điểm của Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng:
+ Đạo đức là cái gốc của người cách mạng. Người cách mạng không có đạo đức cũng giống như cây không có gốc, suối không có nguồn.
+ Đạo đức phải gắn với tài năng. Người hay nói đến đức và tài, hồng và chuyên để chỉ quan hệ khăng khít giữa rèn luyện đạo đức và tài năng.
+ Đạo đức tồn tại, thể hiện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống, từ sinh hoạt thường ngày đến những công việc lớn lao của cách mạng, từ quan hệ xã hội, đoàn thể đến quan hệ gia đình và thái độ đối với bản thân. Hồ Chí Minh nói nhiều về tính phổ biến và tầm quan trọng của đạo đức.
+ Đạo đức cách mạng phải qua rèn luyện, đấu tranh gian khổ với bản thân mới đạt được, cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng tinh.
* Nội dung đạo đức cách mạng của Hồ Chí Minh:
- Trung với nước – hiếu với dân:
Đây là phẩm chất đạo đức cao quý nhất của người Việt Nam.
+ Trung với nước: là trung thành với tổ quốc, hy sinh vì tổ quốc, cống hiến suốt đời vì lợi ích của tổ quốc, của nhân dân.
+ Hiếu với dân: là biết quý trọng nhân dân, học hỏi nhân dân, là đầy tớ của nhân dân.
- Yêu thương con người:
Thương người như thể thương thân là truyền thống đạo đức của dân tộc, là tinh thần nhân văn của nhân loại. Được thể hiện:
+ Trước hết, là yêu thương người lao động bị áp bức bóc lột. Tình yêu đó phải trở thành động lực đấu tranh cho sự giải phóng triệt để người lao động.
+ Yêu thương con người còn có yêu thương người thân, bạn bè, đồng chí, những người sống gần gũi với mình,…. Cần tạo điều kiện cho mọi người phát triển tiến bộ.
- Cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư:
Đó là lao động cần cù, sáng tạo; là tiết kiệm sức lao động, thì giờ và tiền của; là giữ mình trong sạch trước những cám dỗ về vật chất và tinh thần; là trung thực, thẳng thắn, không nịnh bợ người trên, ức hiếp người dưới; là hết mình vì lợi ích chung, không vun vén cho lợi ích riêng tư. Những yếu tố tố đó quan hệ chặt chẽ với nhau, thiếu một yếu tố nào cũng không thành người có đức.
- Tinh thần quốc tế trong sáng:
Cách mạng VN luôn có quan hệ quốc tế. Đó chính là đoàn kết quốc tế trên tinh thần độc lập, tự chủ, cùng có lợi. Không ỷ lại và cũng không lợi dụng lòng tốt của bạn bè thế giới. Phải thấy rõ lợi ích của dân tộc mình đồng thời phải thấy rõ nghĩa vụ và trách nhiệm với dân tộc khác. Giúp bạn là giúp mình. Đó là tinh thần quốc tế của HCM.
* HCM nêu ra 3 nguyên tắc cơ bản để rèn luyện đạo đức:
+ Nói đi đôi với làm, nêu gương bằng những hành động thực tế.
+ Xây đi đôi với chống; trong đó, xây là yếu tố quan trọng nhất.
+ Phải tu dưỡng suốt đời, phải bền bỉ và có quyết tâm cao.
*Rèn luyện phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ chiến sỹ công an, theo tư tưởng HCM:
Cán bộ chiến sỹ công an phải rèn luyện toàn diện để phấn đấu thành con người toàn diện.
Con người toàn diện: Là con người có phẩm chất chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, tri thức và năng lực nghề nghiệp chuyên sâu về thể chất sức khỏe, lối sống lành mạnh. Đó là con người đủ đức và tài để lập thân lập nghiệp, để phục vụ Tổ quốc phục vụ nhân dân.
Nội dung xây dựng con người toàn diện: Phải được cụ thể hóa cho từng người, tùy điều kiện hoàn cảnh học tập công tác để xác định cho mình những nội dung cụ thể, xây dựng kế hoạch phấn đấu trong từng giai đoạn nhất định.
Biện pháp rèn luyện: Rèn luyện là một quá trình phấn đấu suốt cả đời.
* Những phẩm chất cần rèn luyện để trở thành con người toàn diện của người cán bộ, chiến sỹ công an:
- Rèn luyện phẩm chất chính trị:
+ Là nâng cao tinh thần yêu nước. Kết hợp chủ nghĩa yêu nước với lập trường, quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng HCM. Kiên định sự kết hợp ấy trong hoàn cảnh thuận lợi cũng như khó khăn. Giữ vững mục tiêu ĐLDT và CNXH là nội dung cốt lõi của quá trình rèn luyện phẩm chất chính trị của mỗi cá nhân.
+ Phải nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, đấu tranh chống những biểu hiện tiêu cực, những nhận thức và hành động sai trái và phản động, để thực hiện tốt những nhiệm vụ cụ thể được phân công.
- Rèn luyện phẩm chất đạo đức cách mạng:
+ Biết lấy nội dung tư tưởng đạo đức HCM làm mục tiêu phấn đấu rèn luyện cho mình.
+ Rèn luyện đạo đức là một quá trình gian khổ, vừa xây dựng nội dung đạo đức thành thói quen, thành tâm lý, thành nhân cách … vừa đấu tranh với chính mình để xóa bỏ những thói quen, những cám dỗ, những phi đạo đức trong chính mình.
+ Xây dựng đạo đức người CAND trong giai đoạn hiên nay phải biết vận dụng sáng tạo tư tương HCM. Cụ thể: là phải thấm nhuần sâu sắc và thực hiện 6 điều dạy của Bác Hồ với lực lượng CAND.
1. “Đối với tự mình phải cần, kiệm, liêm, chính”.
Điều này, trước hết Bác muốn nhắc nhở từng cán bộ, chiến sỹ CA phải tự giác phát huy vai trò làm chủ bản thân của mỗi người, tự bản thân phải rèn luyện những đức tính cơ bản của người chiến sỹ cách mạng chân chính: cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư.
2. “Đối với đồng sự phải thân ái giúp đỡ”.
Điều này bắt nguồn từ truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước, phải thương nhau cùng”. Đồng thời, bắt nguồn từ tình thân ái giai cấp của giai cấp vô sản, cùng chung lý tưởng và sự nghiệp. Người công an đoàn kết thân ái, giúp đỡ nhau là tăng thêm sức mạnh của nhiều người, sức mạnh của tổ chức. Đoàn kết thân ái giúp đỡ nhau trong học tập công tác dể cùng tiến bô, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.
3. “Đối với Chính phủ phải tuyệt đối trung thành”.
Là trung thành với Đảng, với nhân dân, với Tổ quốc. Trung thành với Đảng của cán bộ, chiến sỹ CA là trung thành với lý tưởng, sự nghiệp của Đảng, suốt đời hy sinh phấn đấu vì ANTQ, vì chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, vì độc lập dân tộc, vì CNXH.
4. “Đối với nhân dân phải kính trọng lễ phép”.
Chủ tịch HCM là một tấm gương trong mỗi lời nói và hành động của mình đều thể hiện sự kính trọng đối với nhân dân. Lo cho dân, cho nước. “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét, Đảng và Chính phủ có lỗi”.
Đối với CA Bác căn dặn phải di đúng đường lối của dân, thì dân mới tin CA, mới giúp đỡ CA và công an mới hoàn thành nhiệm vụ.
5. “Đối với công việc phải tận tụy”.
Theo Bác tận tuỵ là hết lòng, hết sức, toàn tâm, toàn ý phục vụ công việc chung, tận tuỵ là biểu hiện lòng trung thành với nước, hiếu với dân. Bác đã dành cả tâm lực trí tuệ của mình cống hiến trọn đời mình cho nước, cho dân, tận tuỵ vì dân, vì nước.
Do đó, người CA phải tận tuỵ hy sinh dũng cảm, mưu trí sáng tạo mới hoàn thành được công việc được phân công.
6. “ Đối với địch phải cương quyết khôn khéo”.
Cương quyết là một mặt biểu hiện quan điểm lập trường của người CA CM. Người cán bộ chiến sỹ CA phải có thái độ cương quyết trước kẻ địch, phải xác định rõ kẻ thù mà ta phải đấu tranh, trấn áp. Trong giai đoạn hiện nay, đối tượng của CA cần trấn áp là các thế lực chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH của nhân dân ta.
Hiện nay kẻ dịch tấn công ta từ nhiều phía , nếu ta không cảnh giác, cương quyết khôn khéo trước kẻ địch, nắm chắc tình hình mới mong hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng. Hiện nay kẻ địch chống phá ta bằng chiến lược “DBHB” rất nguy hiểm bằng nhiều thủ đoạn tinh vi, đòi hỏi người CA càng phải mưu trí, dũng cảm, cương quyết, khôn khéo.
- Rèn luyện tri thức và năng lực nghề nghiệp:
Học tập để tích lũy tri thức phải có trọng tâm, có định hướng. Tri thức nghề nghiệp là quan trọng nhất. Phải có vốn tri thức phong phú trên lĩnh vực mình công tác.
Tri thức chỉ có ích khi chuyển thành năng lực nghề nghiệp, chuyển thành hoạt động thực tiễn, phục vụ xã hội. Phải gắn tri thức với lao động, học đi đôi với hành, lý thuyết gắn với thực tiễn là tri thức hữu ích. Lao động sẽ làm giàu thêm tri thức, tri thức lại giúp cho lao động sáng tạo, nguồn gốc của sáng chế, phát minh chính là quá trình lao động nghiêm túc.
- Rèn luyện thể chất:
Rèn luyện thể chất là yêu cầu của cán bộ mọi người, ở mọi lứa tuổi. Phải thường xuyên rèn luyện thể chất và biết sử dụng sức khỏe.
Ở độ tuổi lao động càng cần rèn luyện thể chất. Thể chất lành mạnh, dẻo dai đem lại hạnh phúc cho cuộc sống vừa đảm bảo năng lực lao động bền bỉ và minh mẫn.
Phải thường xuyên rèn luyện thể chất và biết sử dụng sức khỏe. Trong điều kện kinh tế thị trường hiện nay, đòi hỏi người lao động phải cần có trí tuệ, năng động, sáng tạo và có thể chất mạnh khỏe tinh thần minh mẫn. Vì vậy, rèn luyện sức khỏe phải được thường xuyên đó là yêu cầu cấp thiết trong điều kiện hiện nay.
Tóm lại: Sự nghiệp đổi mới đòi hỏi người lao động phải nhậy bén và linh hoạt, phải làm việc hết sức mình. Vì vậy, thể chất là yêu tố quan trọng của năng xuất lao động và sáng tạo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Câu 8: Chủ trương và chính sách của Đảng và Nhà nước ta đối với việc phát triển các thành phần kinh tế?
Trả lời:
Chủ trương và chính sách phát triển các thành phần kinh tế:
* Chủ trương:
Nắm vững định hướng XHCN trong việc xây dựng nền kinh tế với các chủ trương sau:
- Thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, lấy việc giải phóng lực lượng sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và XH, cải thiện đời sống nhân dân làm mục tiêu hàng đầu trong việc khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế và các hình thức tổ chức kinh doanh.
- Chủ động đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, làm cho kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, cùng với kinh tế hợp tác dần dần trở thành nền tảng. Tạo điều kiện để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư kinh doanh lâu dài.áp dụng linh hoạt và sáng tạo các hình thức kinh tế tư bản nhà nước.
- Xác lập, củng cố và nâng cao địa vị làm chủ của người lao động trong nền sản xuất XH, thực hiện công bằng XH ngày một tốt hơn.
- Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời, phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi XH.
- Phân phối và phân phối lại hợp lý nhằm khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa đói giảm nghèo; không để diễn ra sự chênh lệch quá đáng về mức sống và trình độ phát triển giữa các vùng, các tầng lớp dân cư, tránh sự phân hóa xã hội thành hai cực đối lập.
- Tăng cường hiệu lực quản lý vĩ mô của Nhà nước, phát huy mặt tích cực, đồng thời khắc phục, ngăn ngừa và hạn chế những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường.
- Giữ vững độc lập, chủ quyền và bảo vệ lợi ích quốc gia, độc lập dân tộc trong quan hệ kinh tế với nước ngoài.
* Chính sách đối với từng thành phần kinh tế:
- Đối với kinh tế nhà nước:
+ Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước thực sự hoạt động trong môi trường cạnh tranh, công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả.
+ Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa.
+ Thúc đẩy việc hình thành một số tập đoàn kinh tế mạnh, tầm cỡ khu vực, có sự tham gia cổ phần của nhà nước, của tư nhân trong và ngoài nước, các công ty bảo hiểm, các quỹ đầu tư… trong đó Nhà nước giữ cổ phần chi phối.
- Đối với kinh tế tập thể:
+ Tiếp tục đổi mới và phát triển các loại hình kinh tế tập thể.
+ Tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh.
+ Khuyến khích việc tăng vốn góp và các nguồn vốn huy động từ các thành viên để tăng nguồn vốn hoạt động của hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ không chia trong hợp tác xã.
- Đối với kinh tế tư nhân:
+ Phát triển mạnh các hộ kinh doanh cá thể và các loại hình doanh nghiệp của tư nhân.
+ Mọi công dân có quyền tham gia các hoạt động đầu tư, kinh doanh với quyền sở hữu tài sản và quyền tự do kinh doanh được pháp luật bảo hộ.
+ Xóa bỏ mọi rào cản, tạo tâm lý xã hội và môi trường kinh doanh thuận lợi cho các loại hình doanh nghiệp của tư nhân phát triển không hạn chế quy mô trong mọi ngành nghề, lĩnh vực.
- Đối với kinh tế tư bản nhà nước:
Phát triển đa dạng kinh tế tư bản nhà nước dước các hình thức liên doanh, liên kết. Thực hiện một cách rộng rãi và lâu dài các hình thức kinh tế tư bản nhà nước để phát triển lực lượng sản xuất phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
- Đối với Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
+ Thu hút mạnh nguồn lực của nhà đầu tư nước ngoài.
+ Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế, đa dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài vào những ngành, nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng.
Câu 9: Thực hiện và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa?
Trả lời:
Câu 10: Nhiệm vụ, nguyên tắc, chủ trương chính sách đối ngoại cụ thể của Đảng và Nhà nước ta?
Trả lời:
Câu 11: Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam?
Trả lời:
Câu 12: Những bài học kinh nghiệm lịch sử của cách mạng Việt Nam?
Trả lời:

Không có nhận xét nào: